Ôn tập TN THPT môn Ngữ văn - Chuyên đề: “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập TN THPT môn Ngữ văn - Chuyên đề: “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
on_tap_tn_thpt_mon_ngu_van_chuyen_de_rung_xa_nu_cua_nguyen_t.pdf
Nội dung tài liệu: Ôn tập TN THPT môn Ngữ văn - Chuyên đề: “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- CHUYÊN ĐỀ VỀ “RỪNG XÀ NU” CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Hoàn cảnh sáng tác rừng xà nu - Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai - Quảng Nam. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ. - Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. 2. Tóm tắt rừng xà nu Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. 3. Nhan đề rừng xà nu - Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này. - Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do. - Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn. 4. Hình tượng cây xà nu * Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện. * Nghĩa thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên. * Nghĩa biểu tượng :
- - Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên: + Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman. + Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman. + Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này. - Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. + Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai ) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu. + Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến. + Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. + Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù. - Nghệ thuật miêu tả: + Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây. + Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng. + Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống. + Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ. 5. Hình tượng nhân vật Tnú
- - Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí: + Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. + Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. + Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến. + Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. - Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng: + Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm. + Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết: “người cộng sản không thèm kêu van”. - Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận: + Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman. + Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng. - Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời: + Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ + Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng. - Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. + Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân
- nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân. + Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. + Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. 6. Cụ Mết, Dít, bé Heng - Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc. Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ. - Dít: một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ. - Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”. II. CÁC DẠNG ĐỀ VỀ RỪNG XÀ NU Dạng 1: Cảm nhận, phân tích nhân vật. Dạng 2: Dạng đề so sánh. Dạng 3: Cảm nhận về đoạn trích trong tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành. Dạng 4: Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành.
- Dạng 5: Cảm nhận chi tiết : chú ý chi tiết bàn tay Tnú, câu nói của cụ Mết, ngọn lửa xà nu III. MỘT SỐ ĐỀ MINH HỌA CHO CÁC DẠNG ĐỀ Dạng 1: Cảm nhận, phân tích nhân vật: “Phân tích nhân vật Tnú” * Mở bài: Sơ lược về tác giả và tác phẩm, giới thiệu nhân vật anh hùng Tnú. * Thân bài - Lai lịch, xuất thân và số phận đau thương: + Mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc. + Tnú được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. + Phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng dưới tay giặc. + Bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy. => thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. - Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm: + Khi còn bé đã xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú. + Quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. + Gan dạ và mưu trí khi đi liên lạc“Không bao giờ đi đường mòn leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc. + Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng. - Vẻ đẹp từ tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao: + Ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.
- + Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt, châm lửa đốt mười đầu ngón tay, nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng, “người cộng sản không thèm kêu van” . + Sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh. - Vẻ đẹp từ tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình: + Tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con, quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai. + Khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm địu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng. + Có tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương. * Kết bài: Nêu cảm nhận. Dạng 2. Dạng đề so sánh: “Phân tích nhân vật Mai (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành) và chị Chiến (Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi) để thấy vẻ đẹp tâm hồn và tinh thần cách mạng của người con gái Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ”. * Giới thiệu chung về hai tác phẩm, nhân vật: - Rừng xà nu: Nguyễn Trung Thành viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Nhân vật Mai trong tác phẩm không được khắc họa nhiều nhưng đã hiện vẻ đẹp của một người con gái Tây Nguyên trong kháng chiến: tình yêu cách mạng, tình yêu gia đình và một bản lĩnh kiên cường, bất khuất. - Những đứa con trong gia đình: Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn – chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Có thể nói Nguyễn Thi là một trong những nhà văn thành công nhất khi viết về hình tượng người phụ nữ Nam Bộ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Trong chiến đấu họ anh dũng, kiên cường, trong gia đình họ đảm đang, nhân hậu. Nhân vật Chiến cũng vậy, ba má đều chết trong chiến tranh, Chiến đã thay má nuôi nấng và dạy dỗ các em. Không những vậy, Chiến còn tham gia du kích từ khi còn nhỏ, hăng hái tòng quân giết giặc. * Phân tích hai nhân vật: - Nhân vật Mai:
- + Sớm giác ngộ cách mạng, tình yêu đối với cách mạng: cùng với Tnu che giấu cán bộ, giúp đỡ cán bộ + Từ nhỏ đã là một cô bé thông minh, khéo léo: cùng với Tnu học chữ, lên rừng bảo vệ các chiến sĩ cách mạng. + Lớn lên là một người mẹ yêu thương con, sẵn sàng hi sinh thân mình để che chở đứa con thơ. + Một người phụ nữ kiên cường, bản lĩnh, giàu tinh thần cách mạng: Sẵn sàng chịu đòn roi kẻ thù nhưng không kêu lên một tiếng, không khai ra chỗ ở của Tnu. Đặc biệt ánh mắt khi nhìn kẻ thù: bình tĩnh mà đầy sức mạnh - Nhân vật chị Chiến: + Chiến sinh ra và lớn lên trong mối thù nhà, nợ nước: ông nội, ba má đều chết trong chiến tranh. Do vậy dù đang còn ít tuổi nhưng chị Chiến vừa thay mẹ chăm sóc cho gia đình, vừa tham gia cách mạng, mang quyết tâm trả nợ nước thù nhà. + Chị Chiến là người con gái lớn đảm đang, yêu thương em, biết vun vén lo toan cho gia đình. + Mang tình yêu đối với cách mạng, quyết tâm đi tòng quân để trả nợ nước, thù nhà. + Bản lĩnh kiên cường, dũng cảm, không lùi bước trước kẻ thù. * Nhận xét, đánh giá về hai nhân vật: - Điểm giống nhau: + Cả hai nhân vật đều là những người con gái trẻ tuổi nhưng đã sớm giác ngộ cách mạng, mang một tình yêu lớn đối với cách mạng, có ý chí , quyết tâm mãnh liệt đấu tranh chống lại kẻ thù. + Họ không chỉ là những chiến sĩ trẻ đầy bản lĩnh mà còn là người con gái của gia đình: biết yêu thương, vun vén. + Hai nhân vật đều mang vẻ đẹp của người con gái ViệtNamnói chung: giỏi việc nước, đảm việc nhà. - Điểm khác nhau: + Mai là người con gái Tây Nguyên bản lĩnh rắn rỏi, nhưng do Mai chưa nhận thức được chân lí cách mạng mà sau này cụ Mết nói (Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo) nên bất lực ôm đứa con thơ chết dưới đòn roi của kẻ thù. + Chiến là người con gái Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, lớn lên trong giai đoạn chiến tranh ác liệt , nên nhận thức rõ mình cần phải làm gì để bảo vệ gia đình, dân tộc. Do vậy Chiến đã quyết tâm đi bộ đội như một nhận thức tất yếu “nếu giặc còn thì tao mất”. * Đánh giá chung về hai nhân vật Dạng 3. Cảm nhận về đoạn trích trong tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành: Cảm nhận của anh/chị về trích đoạn sau: “Cụ Mết chống giáo
- xuống sàn nhà, tiếng nói vang vang: Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên ! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên ! Tiếng chuông nổi lên: Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn, suối đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lừa cháy khắp rừng ” ("Rừng xà nu" – Nguyễn Trung Thành) 1. Giới thiệu chung: Nguyễn Trung Thành là văn gắn bó sâu sắc với Tây Nguyên, thường viết về những sự tích anh hùng kết tinh cho vẻ đẹp của thời đại. “Rừng xà nu” được viết trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ ác liệt, được xem như một bi “Hịch tướng sĩ” thời chống Mĩ ca ngợi vẻ đẹp kiên cường, bất khuất, bất diệt của đồng bào Tây Nguyên nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung; tác phẩm còn khái quát được chân lí thời đại. 2. Trình bày cảm nhận: Đoạn trích trong "Rừng xà nu": Nguyễn Trung Thành đã đặt nhân vật cụ Mết trong thời điểm lịch sử trọng đại – thời điểm đồng khởi, cùng lời hiệu triệu là sự hưởng ứng của nhân dân, của cả rừng xà nu, của hiện tại và quá khứ, là sức mạnh tổng hợp của vật chất lẫn tinh thần, của sự đoàn kết, đồng tâm nhất trí Một cảnh tượng hoành tráng đậm màu sắc Tây Nguyên 3. Đánh giá chung: Đoạn trích trên, viết về đề tài chiến tranh. Cách mạng (thời kỳ kháng chiến chống Mỹ); tác phẩm mang vẻ đẹp sử thi, dấu ấn rõ nhất là hình tượng những nhân vật anh hùng, mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh cộng đồng, hoàn thành trách nhiệm lớn lao trước lịch sử dân tộc. Dạng 4. Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành: Hãy viết một bài văn nghị luận làm sáng tỏ ý kiến: “Cuộc đời bi tráng của Tnú (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành) góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng”. * Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cuộc đời bi tráng của Tnú góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. * Phân tích: Cuộc đời bi tráng của Tnú được miêu tả trong tác phẩm. Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được: - Cuộc đời bi tráng của Tnú: + Những đau thương, mất mát: Tnú mồ côi từ nhỏ; Khi đi liên lạc, bị giặc bắt và tra tấn; Phải chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra khảo; Bản thân bị giặc đốt 10 đầu ngón tay;
- + Tnú tiêu biểu cho số phận đau thương của cộng đồng làng Xô Man -Tây Nguyên. + Tnú vượt lên những đau thương mất mát để trung thành với lí tưởng, để chống giặc đến cùng; Bị giặc bắt khi đi liên lạc, không khai báo + Vượt lên nỗi đau khi vợ con bị giặc giết + Cắn răng chịu đựng nỗi đau khi bị đốt 10 đầu ngón tay để mãi mãi là một cây xà nu lao thẳng. + Tnú chiến đấu sống chết vì lí tưởng CM: Can trường khi đối mặt với kẻ thù. - Làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Tnú một mình tay không giữa bọn giặc nên đã bất lực trước kẻ thù (không cứu được vợ con, bi giặc đốt 10 đầu ngón tay) Khi cụ Mết cùng với du kích, có vũ khí đã giết hết bọn giặc, cứu được Tnú Lời cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” Như một cây xà nu bị thương nhưng vẫn cho đời những lộc mới, Tnú tiếp tục gia nhập lực lượng - chiến đấu giải phóng quê hương. * Nhận xét, đánh giá về ý kiến * Kết bài. Dạng 5. Cảm nhận chi tiết: chú ý chi tiết bàn tay Tnú, câu nói của cụ Mết, ngọn lửa xà nu Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hình tượng Tnú 2. Ý nghĩa cơ bản của hình ảnh đôi bàn tay Tnú Đôi bàn tay Tnú như một chi tiết nghệ thuật thể hiện tính cách, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số phận và tính cách nhân vật: - Đó là đôi bàn tay của người trung thành, thủy chung với cách mạng - Đôi bàn tay của nghĩa tình - Đôi tay của con người trung thực - Đôi bàn tay là hiện thân của mất mát đau thương, ghi lại chứng tích tội ác mà kẻ thù đã gây ra - Cuối cùng đó là đôi bàn tay cầm vũ khí chiến thắng kẻ thù. 3. Đánh giá về chi tiết 4. Kết bài 5. Ví dụ cụ thể:
- Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Có thể nói: Mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống đấu tranh bất khuất đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhà văn. Rừng xà nu là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính lịnh sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú. Hình ảnh đôi bàn tay của Tnú mang đến những ấn tượng rất lớn trong lòng người đọc. Đặc biệt nó mang đậm ý đồ nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gắm qua đó. Bằng ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật Tnú hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại. Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc. Bàn tay Tnú cũng gợi ra tính cách và cuộc đời của con người Tây Nguyên này. Có những lúc anh phải chịu những đau khổ những đòn đau của địch. Bàn tay ấy cầm chông cầm giáo, bàn tay bao bọc vợ con dù phải hi sinh thân mình. Và đến cuối cùng bàn tay ấy cũng giết chết biết bao nhiêu kẻ thù để báo thù cho tất cả những đau thương mà nó cũng như chủ nhân nó phải chịu. Bàn tay ấy khi còn lành lặn thì cùng Mai học chữ trong rừng. Cùng với thời gian trôi qua thì bàn tay ấy đã nhanh nhẹn cầm những thứ liên lạc vượt qua mọi gian nan và những vòng vây của giặc để mang đến cho những người cán bộ trong rừng. Mặc dù là một người khi còn nhỏ nhưng đã mang những phẩm chất anh hùng một bàn tay nhỏ nhắn như vậy mà có thể cầm biết bao nhiêu đồ như vậy, quả thật rất đáng khen. Khi đôi bàn tay ấy cầm phấn học bài nhưng khi không học được thì cũng chính bàn tay ấy đã đập đầu khiến cho máu chảy ròng ròng. Bàn tay làm nổi bật lên hình ảnh người anh hùng Tây Nguyên. Bàn tay ấy còn mang một vẻ đẹp lớn đó là vẻ đẹp của sự gan dạ nữa: vạch rừng vượt thác để đem thư mật đến cho những người cộng sản. Và ngay cả khi bị bắt thì đôi bàn tay ấy cũng không ngần ngại mà chỉ thẳng vào bụng mà nói “cộng sản ở đây này”. Qua những lời lẽ của anh thì ta cũng thấy được Tnú là người gan góc tới như thế nào. Có thể nói vẻ đẹp của Tnú qua đôi bàn tay lại được hiện lên. Bàn tay anh là một bàn tay dịu dàng ấm áp dắt Mai đi đến những hạnh phúc và yêu thương, cầm tay Mai hẹn hò bên những gốc cây vả. Bàn tay ấy còn rứt đứt hàng chục trái vả thể hiện sự căm thù của quân giặc trong cái đêm mà mẹ con Mai bị tra tấn cho đến chết. Chứng kiến cảnh con bị đau đớn đôi bàn tay ấy như thể hiện cảm xúc thay cho chủ nhân của nó. Bất lực nhưng không thể làm điều gì nỗi
- đau ấy ai thấu. Mẹ con Mai ngã xuống chính bàn tay ấy cũng là cánh tay đỡ lấy vợ con mình. Lúc này bàn tay anh là bàn tay ngập tràn yêu thương. Chi tiết đặc sắc nhất là khi bị bọn giặc bắt chúng bó giẻ vào bàn tay ấy tẩm nhựa xà nu mà đốt cháy. Mười đầu ngón tay Tnú bốc lên như mười ngọn đuốc. Nhưng anh không kêu thán một lời nào mà cắn răng chịu đựng, nó đẹp bởi vì nó chịu nhiều thương đau nhưng nó không bao giờ là bàn tay chết cả. Bàn tay ấy sau này vẫn cầm chắc tay súng và giết chết biết bao nhiêu quân giặc. Chi tiết đôi bàn tay trong “Rừng Xà Nu” là một chi tiết đặc sắc và mang nhiều giá trị về nội dung cũng như thành công về nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành. Cũng qua đôi bàn tay ấy, hình ảnh của một người anh hùng Tây Nguyên cũng dần hiện ra hiền lành và gan dạ rồi đến yêu thương.

